Mưu “độc” bất thành, trở ngược “liên doanh” (?!)
CPL hiểu rõ, khi tung “chiêu độc, đòn hiểm” với chủ đầu tư thì việc hợp tác gần như chấm dứt. Lẽ ra nên thương lượng với Công ty HP để nhận lại khoản tạm ứng 15,6 triệu USD thì CPL khởi kiện ngày 21-8-2012, yêu cầu Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (gọi tắt VIAC) buộc chủ đầu tư phải thành lập Công ty liên doanh (CTLD) theo Thỏa thuận khung (TTK) ký ngày 1-6-2007…
Nhiều chuyên gia pháp lý trong đó có Tiến sĩ luật Lưu Bình Nhưỡng (Phó trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội) đều có chung quan điểm: PQTT cưỡng buộc hai doanh nghiệp (DN) phải “liên doanh” là trái quy định pháp luật.
LS Trần Hải Đức (Đoàn Luật sư TPHCM) và nhóm hơn 10 LS ở TPHCM chỉ ra PQTT có ít nhất 5 điểm sai cả về hình thức lẫn nội dung. Trong đó, điểm sai nghiêm trọng nhất chính là việc bức ép hai DN như “nước với lửa”, mâu thuẫn gay gắt, phải cùng “sánh đôi” theo kiểu “cưỡng hôn”. Trong khi đó, theo quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có Luật Đầu tư việc thành lập CTLD phải do “ý chí tự nguyện” của các bên đương sự, không ai được can thiệp, làm thay.
Lãnh đạo Bộ Tư pháp (cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lí Nhà nước về Trọng tài theo khoản 3, Điều 15 Luật Trọng tài thương mại), cũng nêu rõ quan điểm, thể hiện tại VB số 123/BC-BTP ngày 4-6-2018: “Theo quy định của Luật Đầu tư và pháp luật khác có liên quan, việc thành lập CTLD phải do ý chí tự nguyện của các bên đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (kể cả cơ quan THADS) không thể thực hiện thay”.
LS Trần Hải Đức chỉ ra thêm: CPL được Công ty mẹ Chuangs lập ra tại British Virgin Islands – BVI, là “thiên đường thuế” số một thế giới. Bản thân Công ty Chuangs cũng đăng ký thành lập tại “thiên đường thuế” Bermuda. CPL có dấu hiệu “đầu tư chui”. Điều này đã được Bộ Công an khẳng định tại VB số 1606/ANCTNB-P4 ngày 7-11-2018: “Đến nay, CPL không có thông tin về đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh và chưa được cấp phép hoạt động thương mại tại Việt Nam”. CPL không có tư cách pháp nhân tại Việt Nam nên không thể đứng tên trong CTLD theo Luật Đầu tư 2005. Do đó, ngay cả khi chủ đầu tư đồng ý “sánh đôi” thì cũng không thể lập được liên doanh HP – CPL do chưa tuân thủ theo pháp luật Việt Nam.
Liên quan đến số tiền tạm ứng 15,6 triệu USD, CPL chuyển ngoại tệ vào Việt Nam từ năm 2007-2008 nhưng đến nay, vẫn chưa đăng ký với Ngân hàng Nhà nước cũng như tỉnh Long An. Mặt khác, CPL chuyển lượng lớn ngoại tệ khi chưa được cấp phép đầu tư và cấp phép hoạt động thương mại tại Việt Nam là trái với quy định của pháp luật về đầu tư và thương mại. Còn nữa, về nguồn gốc số ngoại tệ này là “tiền sạch” hay “tiền đen” đưa vào Việt Nam với mục đích “rửa tiền”, cũng chưa được làm rõ. Vậy mà Hội đồng VIAC lại “thương” CPL, công nhận vô điều kiện số ngoại tệ này rồi lấy làm căn cứ để tính “phí trọng tài” lên đến 114.207,16 USD (?!).
Thật khó tin, những “lỗ hổng” PQTT đã bày ra trước mắt, nhiều không đếm hết, vậy mà TAND TPHCM với “Hội đồng” gồm 3 thẩm phán Nguyễn Công Phú (chủ tọa), Nguyễn Thu Chinh và Phạm Thị Duyên, dễ dàng bỏ qua tất cả, rồi ra QĐ số 1171/2013/KDTM-ST ngày 25-9-2013 “không hủy PQTT”.
Đầu “liên doanh”, đuôi… “chia đất”(!)
PQTT đã được bộ 3 thẩm phán “thông qua”, có hiệu lực pháp luật nhưng kéo dài suốt gần 9 năm, qua hai cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) của TPHCM và Long An (sẽ được phản ánh ở kỳ cuối) vẫn không thể thi hành. Nguyên nhân cốt lõi: Việc lập CTLD mang tính “tự nguyện” giữa HP và CPL, không ai được làm thay. Lãnh đạo Bộ Tư pháp cũng xác định rõ tại VB số 123/BC-BTP: “PQTT rất khó để tổ chức thi hành trên thực tế”.
Về phía CPL, khởi kiện để có được PQTT như ý nhưng không thực hiện mà có mưu đồ khác. Cụ thể, suốt 3 năm qua, CPL có nhiều VB gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp cùng các cơ quan chức năng, thừa nhận: “Mâu thuẫn giữa HP và CPL kéo dài, không thể tháo gỡ. Việc lập CTLD không còn khả thi”. Từ đó, CPL yêu cầu “thu hồi dự án, lấy đất “chia” và giao đất cho CPL 130ha, cắt ra từ 13 QSDĐ với 232,66ha của Công ty HP.
Trong VB đề ngày 9-3-2021, CPL tự nhận “không còn chút niềm tin với Công ty HP”. Mới nhất, tại hai VB đề ngày 8-11 và 8-12-2021, CPL vẫn nằng nặc đòi “chia 130ha đất”.
Phó TGĐ Công ty HP Thái Thị Hồng Hậu, bày tỏ bức xúc: Chính CPL xác định “mâu thuẫn kéo dài, không thể tháo gỡ” nhưng lại khởi kiện đòi lập CTLD. Sau hơn 8 năm, CPL đảo ngược, cho rằng “việc lập CTLD không khả thi” nên tự “xé toạc” PQTT, “khai tử” dự án, để “chia đất”. CPL phơi bày hành vi bỡn cợt, xem thường pháp luật Việt Nam. Tệ hại hơn, CPL còn trịch thượng, nhiều lần “đe” các cơ quan chức năng địa phương, “dọa” lãnh đạo Trung ương nhưng không bị xử lý nên ngày càng lộng hành.
“Khởi kiện đòi lập liên doanh nhưng đích cuối cùng mà CPL nhắm tới và muốn đạt được là “chia 130ha đất”. Vì muốn “chia đất” và liên tục đòi “chia”, nên CPL tìm mọi cách để không thi hành PQTT. Lạ thay, một số cơ quan chức năng lại “thương” và “chiều” theo CPL; quay sang làm khó, thậm chí “trù dập” Công ty HP. Là chủ đầu tư, HP lại bị đối xử “tệ” ngay trên sân nhà!”, bà Hậu tâm tư…
Liên quan đến thực thi PQTT, Tiến sĩ luật Lưu Bình Nhưỡng – Phó trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội, có VB đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xem xét việc cố tình buộc thành lập liên doanh giữa Công ty HP và CPL (CPL là DN như thế nào các cơ quan có thẩm quyền còn chưa rõ, thậm chí có thể là doanh nghiệp (DN) trá hình rửa tiền, có thông tin chính CPL đã sử dụng thông tin của dự án để lên sàn chứng khoán kiếm hàng chục triệu đôla ở nước ngoài) chưa được cấp phép đầu tư, nhằm đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của các DN theo pháp luật. Theo nguyên tắc của pháp luật quy định trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật DN… thì không ai có quyền buộc các bên thiếu thiện chí, không tự nguyện phải cùng thành lập DN kinh doanh chung.
Tiến sĩ luật Lưu Bình Nhưỡng
Liên quan đến TTK, Tiến sĩ luật Phan Trung Hoài (Phó chủ tịch Liên đoàn LS Việt Nam) nêu quan điểm: Căn cứ quy định tại Điều 122, 128 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì, TTK giữa CPL và Công ty HP ký kết ngày 1-6-2007 là giao dịch vô hiệu. Đồng quan điểm với Tiến sĩ Hoài, LS Hà Thị Thanh (Đoàn LS TP. Hà Nội) nêu thêm: TTK bị vô hiệu do Công ty HP chưa có đủ điều kiện để thực hiện việc góp vốn bằng giá trị QSDĐ của dự án tại thời điểm ký kết.
(Còn tiếp…)
Nam Huy
(Theo báo CA TP.HCM)